Tuy nhiên, trước yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, một số quy định của Luật số 14 không còn phù hợp, cần phải xây dựng lại Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ căn cứ vào các cơ sở sau:
1. Cơ sở chính trị, pháp lý: Quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp bảo vệ; trong khi đó, công tác quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ có liên quan trực tiếp đến những quyền này, do đó cần phải quy định việc quản lý, sử dụng phương tiện đặc biệt này bằng luật để đảm bảo phù hợp với quy định của Hiến pháp về bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Đồng thời, việc ban hành luật cũng là một trong những cam kết của Việt Nam khi tham gia hợp tác quốc tế trên lĩnh vực phòng, chống buôn bán bất hợp pháp vũ khí, phòng, chống khủng bố, vũ khí huỷ diệt hàng loạt mà Việt Nam đã ký kết. Bên cạnh đó, thời gian qua Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản để đẩy mạnh cải cách hành chính, phát triển dữ liệu số quốc gia bảo đảm cung cấp, chia sẽ dữ liệu chất lượng thông suốt giữa các cơ quan Nhà nước theo quy định của pháp luật để hỗ trợ phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và hội nhập quốc tế. Nhằm triển khai thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Chính phủ cần thiết phải nghiên cứu xây dựng Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ đáp ứng yêu cầu công tác quản lý Nhà nước và phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm trong tình hình mới.
2. Cơ sở thực tiễn
- Qua 5 năm thực hiện Luật số 14, trên toàn quốc lực lượng chức năng đã đấu tranh, phát hiện, bắt giữ hơn 14.800 vụ, 22.500 đối tượng chế tạo, mua bán, vận chuyển, tàng trữ và sử dụng trái phép súng tự chế, vũ khí thô sơ, vũ khí tương tự vũ khí thô sơ (chiếm 76% so với tổng số vụ, 72,6% so với tổng số đối tượng). Trong khi đó, việc xử lý hình sự đối với các loại tội phạm này gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do: Luật số 14 quy định các khái niệm về vũ khí chưa khái quát, còn tách bạch giữa vũ khí quân dụng với các loại vũ khí khác, các loại vũ khí này đều được trang bị cho lực lượng vũ trang và các lực lượng khác để thi hành công vụ hoặc đối tượng sử dụng gây ra nhiều vụ án đặc biệt nghiêm trọng; trong khi đó, việc xử lý hình sự theo quy định tại Điều 304, 306 Bộ luật hình sự gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, các đối tượng đã lợi dụng kẽ hở của pháp luật để chế tạo, tàng trữ, mua bán, vận chuyển, sử dụng trái phép các loại súng tự chế, vũ khí thô sơ và linh kiện để lắp ráp vũ khí, nếu không kịp thời ngăn chặn, xử lý nghiêm các đối tượng trên sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây mất an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
- Luật số 14 đang quy định 30 Điều về thủ tục cấp các loại giấy phép, giấy xác nhận về vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ. Do đó, để thực hiện cải cách, đơn giản hoá thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người dân thì cần thiết cắt giảm các loại giấy tờ, đồng thời triển khai thực hiện các dịch vụ công trực tuyến theo lộ trình Đề án 06 của Chính phủ.
- Thực tế hiện nay, nhiều tổ chức, doanh nghiệp của các nước trên thế giới có cho, tặng, viện trợ một số loại vũ khí, công cụ hỗ trợ cho Việt Nam để phục vụ nghiên cứu, sản xuất hoặc trang bị cho các đối tượng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, Điều 5 Luật số 14 quy định nghiêm cấm việc trao đổi, tặng, cho, gửi, mượn, cho mượn, thuê, cho thuê, cầm cố vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ. Vì vậy, để tận dụng nguồn lực từ nước ngoài hỗ trợ Việt Nam trong nghiên cứu, sản xuất, trang bị, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ thì cần thiết phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định này cho phù hợp.
- Luật số 14 quy định giấy phép sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ có thời hạn là 05 năm, giấy xác nhận đăng ký công cụ hỗ trợ không có thời hạn. Tuy nhiên qua trình thực hiện thấy, các loại vũ khí, công cụ hỗ trợ được cấp giấy phép sử dụng không thay đổi về chủng loại, nhãn hiệu, ký hiệu, số hiệu và cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được trang bị. Trong khi đó, giấy phép sử dụng và giấy xác nhận đăng ký công cụ hỗ trợ là do cơ quan quản lý cấp với quy trình, thủ tục cấp tương tự như nhau. Vì vậy, để thống nhất cách đăng ký, quản lý vũ khí, công cụ hỗ trợ bằng 01 loại giấy phép sử dụng thì cần thiết sửa đổi, bổ sung các điều quy định về cấp giấy phép sử dụng theo hướng không quy định thời hạn giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ và chuyển việc cấp giấy xác nhận đăng ký công cụ hỗ trợ sang cấp giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ.
- Một số quy định về việc nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, vận chuyển và sử dụng vật liệu nổ công nghiệp còn chưa phù hợp với thực tiễn như: Chưa có quy định về việc đăng ký sản phẩm vật liệu nổ công nghiệp mới sản xuất, sử dụng tại Việt Nam; việc quy định chủng loại sản phẩm, quy mô sản xuất phải phù hợp với định hướng phát triển ngành vật liệu nổ công nghiệp chưa phù hợp với Luật quy hoạch; việc quy định tổ chức, doanh nghiệp sử dụng vật liệu nổ công nghiệp không hết phải bán lại cho tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp; quy định giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp chỉ có giá trị cho 01 lượt vận chuyển gây khó khăn cho các doanh nghiệp…
Vì vậy, cần thiết phải nghiên cứu xây dựng Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (sửa đổi) nhằm đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp; kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, góp phần phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, vi phạm pháp luật; đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Ngọc Thạch, Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội